Trịnh Doanh 鄭楹 (1720-1767) là vị chúa Trịnh thứ 7 thời Lê Trung Hưng, ở ngôi từ năm 1740 đến 1767, là con trai thứ hai của Bà Chúa Me và Chúa Trịnh Cương.
Từ năm 1736 đời Lê Ý Tông, Trịnh Doanh được cử giữ chức Thái uý, Tiết chế thuỷ bộ chư doanh, tước An Quốc công lúc mới 16 tuổi. Năm Canh Thân (1740) đời Lê Hiển Tông, được thay anh lên nối nghiệp chúa. Đến năm Nhâm Tuất (1742) tự phong là Đại nguyên soái Tổng quốc chính, Minh Đô vương. Ông mất tháng giêng năm Đinh Hợi, niên hiệu Cảnh Hưng 28 (1767), được tôn xưng là thuỵ hiệu Nghị Tổ Ân vương 毅祖恩王.
Từ năm 1736 đời Lê Ý Tông, Trịnh Doanh được cử giữ chức Thái uý, Tiết chế thuỷ bộ chư doanh, tước An Quốc công lúc mới 16 tuổi. Năm Canh Thân (1740) đời Lê Hiển Tông, được thay anh lên nối nghiệp chúa. Đến năm Nhâm Tuất (1742) tự phong là Đại nguyên soái Tổng quốc chính, Minh Đô vương. Ông mất tháng giêng năm Đinh Hợi, niên hiệu Cảnh Hưng 28 (1767), được tôn xưng là thuỵ hiệu Nghị Tổ Ân vương 毅祖恩王.
Trong số các chúa Trịnh, Trịnh Doanh là một vị chúa hay thơ và sành về thơ Nôm. Tuy nhiên, phải đến khi con trai ông là Trịnh Sâm (1737-1782) lên nắm quyền thì thơ ông mới được tập hợp, ghi chép thành sách Càn nguyên ngự chế thi tập, gồm 268 bài, trong đó có 37 bài thơ chữ Hán và 231 bài thơ chữ Nôm. Người tuân mệnh lệnh làm việc này là Phan Lê Phiên (1734-1809), giữ chức Hàn lâm viện Thị thư, Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Các nhà nghiên cứu Hán Nôm đương đại còn gọi ông là “Ông chúa thơ Nôm”.
Trong tập thơ “Càn nguyên ngự chế thi” (Tuyển tập “Tổng tập văn học Nôm Việt Nam”, NXB Khoa học Xã hội, năm 2008, do PST. TS. Nguyễn Tá Nhí làm chủ biên, có một bài thơ Chúa Trịnh Doanh viết tặng Bà Thái phi ca ngợi công đức của Bà Thái, kính chúc bà Thái phi nhiều phúc thọ và sống dài lâu. Bài thơ này hiện đã được khắc trên bia đá tại Đền thờ Quốc Thánh Mẫu tại thôn Phục Lễ.
Tiêu đề và nội dung bài thơ như sau:
Cung hạ Ý Đức chủng một tê hoa nhị trung sinh diệp
(Kính mừng Ý Đức trồng hoa Mộc Tê, trong nhụy đâm lá)
“Tư bồi nhờ có đức tư sinh,
Mừng thấy tin mừng sớm phát vinh.
Chồng chập mấy tầng phô vẻ lạ,
Nở bông một thức trỗi điềm lành.
Hưu trung đã ứng nền bình trị,
Gia thụy thêm rành vận thái hanh.
Chúc đức Từ Cung nhiều phúc thọ,
Thẻ gieo tiên ốc chất nên thành”.
Giải nghĩa:
– Ý Đức: Chỉ Bà Thái phi, thân mẫu của Chúa Trịnh Doanh, được phong là Ý công Hậu đức Trang hạnh, Đoan nghi Khuông vận Diễn phúc Quốc Mẫu.
– Tư bồi: Vun đắp. Tư sinh: Giúp cho sự sống
– Phát vinh: Làm cho tươi tốt
– Một thức: Một vẻ, một kiểu. Trỗi: Nảy sinh
– Hưu trưng: Điểm tốt lành
– Gia thụy: Điểm tốt lành. Thái hanh: Thông suốt
– Từ cung: Chỉ bà Thái phi
– Thẻ: Người xưa quan niệm sống thêm mỗi tuổi là tăng một thẻ vào hòm thọ.
– Thẻ chất nên thành: Là tuổi thọ cao.
Trịnh Vũ Anh Xuân (sưu tầm)